Câu lạc bộ Nhà báo nữ tuổi 15

The player will show in this paragraph
Hơn 35 năm sau khi tốt nghiệp Đại học, trong dịp về dự Kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Trường Đại học Tổng hợp Huế, giữa hàng ngàn cựu sinh viên, tôi vẫn nhận ra chị với tà áo dài của Huế nhưng mang màu hoa anh đào nhẹ nhàng và duyên dáng, mà trước đó, cũng tại lần kỷ niệm 55 năm của Trường (năm 2012), chị đã có bài phát biểu đại diện cựu sinh viên khiến Thầy Cô và những người bạn cùng thời đều xúc động và không cầm được nước mắt.  

Tháng chín mưa rươi...

“Tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm”, đến hẹn lại lên, người dân các vùng Thái Bình, Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định đêm đêm dùng các vuông lưới gọi là “xăm” để vớt rươi, rồi đem lên Hà Nội bán vào các buổi sáng trên các phố chợ


Con gì bé tỉ bé ti

Người đi dưới đất, bóng đi trên trời

Ấy chính là con rươi. Hàng năm, vào cữ thu già, những đám mây ngang trời đã tai tái sắc chì, từ các chân ruộng vùng cửa sông nước lợ của đồng bằng Bắc bộ đêm đêm săm sắp nước mưa, con rươi nứt lỗ chui lên bước vào mùa sinh sản mới. Cái mưa rươi nó lạ lùng lắm. Thoạt đầu không ai nhận ra. Chợt đến chợt đi. Chẳng ra mưa rào mà cũng chẳng phải mưa dầm. Nhưng mà trời đất  lúc thì oi oi  nồng, lúc lại gai gai lạnh. Đang vừa hanh hảnh chút nắng vàng, lại xầm xì lắc rắc mấy hạt mưa xám.  Nhưng mà các cụ già thì hầu như là nhớ ngay, vừa tự đấm lưng thùm thụp vừa kêu: Lại “kẻ ăn rươi người chịu bão” rồi đây.


“Tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm”, đến hẹn lại lên, người dân các vùng Thái Bình, Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định đêm đêm dùng các vuông lưới gọi là “xăm” để vớt rươi, rồi đem lên Hà Nội bán vào các buổi sáng trên các phố chợ, với những tiếng rao ra rả: “Ai mua rươi ra mua! Ai mua rươi ra mua!”. Âm chữ “ Rươi” được kéo dài và cao vỏng vót,  nghe na ná như có dấu sắc, dễ suy diễn, khiến nhiều người bật cười mà nhớ mãi.


Hàng rươi gánh rong trên phố khác với rất nhiều các hàng rong. Vì mỗi năm những gánh rươi chỉ xuất hiện đôi ba ngày trong cữ này. Và các cô hàng rươi bao giờ cũng đi hai người. Một cô lặng lẽ gánh hàng, một cô cất tiếng rao. Hễ có người gọi, cô gánh rươi bắt đầu gỡ ngay chiếc nón ngồi phệt xuống  bên quang gánh  mở thúng rươi cho khách xem. Đôi tay cô lúc nào cũng dính dấp mấy đốt rươi xanh xanh đỏ đỏ, trông dễ sợ. Bởi thế, bên quang gánh bao giờ cũng có một xô nước nhỏ để mỗi lần cân rươi xong, thì cô rửa tay . Còn cô rao hàng thì vừa  luôn miệng chào mời khách, tranh thủ quảng cáo những là rươi “tẻ”, “rươi nếp”, vừa thoăn thoắt đếm  tiền . Mua rươi, các bà nội trợ sành sỏi thường thích lựa những con rươi còn tươi sống. Những con rươi tươi sống thì thường ngoi lên mặt trên thúng, có lẽ để hít thở khí trời chăng? Bởi vậy, lớp rươi trên, gọi là “rươi mặt” ấy rất quý. Song không cô hàng rươi nào lại dại dột xúc toàn rươi mặt mà bán cho khách. Dẫu khách có trả hơn tiền đi chăng nữa. Thế còn rươi đáy thúng, bán cho ai?.


Có những gánh hàng rươi quen năm này qua năm khác, thì cô hàng còn dúi thêm cho bà khách sành miệng mấy miếng vỏ quýt tươi mà cô đã gom ở chợ hồi sáng sớm. Thế thì bà khách thích lắm. Bởi vì rươi thì có đến dăm bẩy món ăn. Nhưng không món nào có thể thiếu được được thứ gia vị quan trọng nhất, ấy là vỏ quýt. Rươi là thức ăn rất giàu đạm, nên người ăn dễ bị đầy bụng, khó tiêu. Vỏ quýt có tên thuốc là trần bì, lại có tác dụng tiêu thực, chống đầy bụng. Nhưng mà cũng không chỉ là vỏ quýt. Còn là hành hoa, thìa là, lá gấc non. 


Thông dụng nhất là món chả rươi. Phụ nữ các gia đình Hà Nội cũ, không ai là không biết làm. Một cân rươi đem nhặt bỏ hết cỏ rạ lẫn vào. Đun nước nóng già trần qua, gọi là “ làm lông rươi”, sau lấy ba chiếc đũa đánh cho nhuyễn. Nhà sang thì một lạng thịt nạc vai mỡ giắt, nhà bình dân thì vài ba lạng, băm nhỏ, hai quả trứng vịt, ba thìa nước mắm, một dúm hạt tiêu, một nắm hành hoa, thìa là, vỏ quýt, lá gấc non thái nhỏ biến. Tất cả cho vào đánh lẫn với rươi. Mỡ lợn đun sôi già, dùng chiếc muôi nhỏ, xúc từng thìa rươi đổ vào chảo. Rươi rán cần để nhỏ lửa, cho chín kỹ, kẻo dễ tanh. Rươi ăn nóng, chấm nước mắm chanh, tỏi, ớt, hạt tiêu thật là một món đưa cay khoái khẩu. Rươi xào với củ niễng hay không có,  thì thay bằng củ cải thái chỉ. Nhớ xào riêng từng thứ, cho rươi được săn mình, đĩa rươi khô ráo, không chảy nước,  thì mới thật là ngon. Duy chỉ có bây giờ, muốn mua được bó củ niễng thì hơi khó, phải nhờ đặt ở các bà hàng rau mấy chợ cũ như chợ Hàng Ba, Cửa Nam hay Hàng Bè, chợ Hôm  may ra mới chuốc được. Bó củ niễng thì nom hơi giông giống như bó củ sả, nhưng bụ bẫm hơn, thái củ niễng ra, bên trong có mấy chấm xám nho nhỏ thưa thoáng. Thì đích đấy!  không phải là củ bị hỏng đâu.

 Nhưng như  bà mẹ tôi thuở sinh thời, không chỉ làm có hai món là rươi rán và rươi xào như thế. Bà nấu riêu rươi. Cha tôi rất mê món riêu rươi do mẹ tôi nấu.  Cứ vào cữ trời đất vần vụ đổi màu tháng 9, là ông lại thỉnh thoảng gióng giả: “Xương cốt độ này làm sao ấy nhỉ, đau như giần. Giá có bát canh rươi mà húp nóng, thì vô sự ngay”, khiến mẹ tôi lại cười cười ngóng ra phố, ngóng tiếng rao của chị em cô hàng rươi năm ngoái. Không biết cô em mùa cưới này đã có người đặt trầu cau chưa?

 Rươi đem về nhặt bỏ cỏ rạ,  đánh nhuyễn với thìa muối nhỏ, hoà trong nước lã như ta lọc cua đã giã vậy. Sau đó, đem bắc trên bếp đun sôi to lửa. Rươi sẽ đóng bánh gạch chắc nịch như gạch cua. Sau đó lọc mẻ chua cho vào. Muốn có cái để vớt cho vui đũa thì cho thêm mấy miếng khế, nhưng nhớ thái dọc quả khế, bỏ hột, không thì hột khế sẽ làm xám đen nước riêu. Đoạn rồi phi hành mỡ, thả cà chua xào thơm,  rồi đổ lên trên bánh gạch rươi.  Cuối cùng thả hành, thìa là, vỏ quýt thái nhỏ,  nhắc ra ăn nóng. Người ta hiếm ăn riêu rươi với rau ghém, sợ nguội canh thì tanh miệng. Khi ăn, nhớ thêm vào mấy bụi hạt tiêu bắc cho thật thơm. Cũng có khi bà mẹ tôi lại  nấu một nồi canh rươi lẫn với củ măng non  thái chỉ. Nấu như thế thì con rươi để nguyên không đánh nhuyễn. Canh rươi nấu măng thì phải bớt chua đi và nhớ  thêm chút lá mùi tàu thái chỉ, thế mới hợp vị, ăn hay ra phết. Mỗi tội dẫu có muón chọn rươi mà “ăn mảnh” cũng khó đấy, tục ngữ có câu “ Chẳng ra măng ra rươi gì cả” là như thế.

Chừng sang chập đầu tháng mười âm lịch, ngang trời mây xám trôi  nặng nề. Đêm đêm, những cơn gió bấc đầu mùa đã thổi sàn sạt trên mái nhà, .Đâu đó, trên các đường phố, đã trĩu trịt những gánh gạo quê mới. Mẹ tôi không quên  làm thêm món rươi kho. Rươi kho  trong chiếc niêu đất nhỏ, đặt trên chiếc bếp mùn cưa đóng hờ cửa gió, cho lửa nhỏ đều liu riu suốt cả buổi. Một dúm sợi củ cải khô cùng vỏ quýt, hạt tiêu mấy khẩu mỡ phần và loáng thoáng dăm ba lát gừng non thái chỉ trộn lẫn. Kho đến khi sem sém nồi là được. Trước khi ăn, cũng chớ quên gia thêm hành thìa là và chút hạt tiêu bắc. Con rươi kho săn chắc, ăn vừa bùi vừa béo, rất đưa cơm. Nhưng nhiều người trông thấy con rươi kho có vẻ giống như con rết hay con cuốn chiếu, thì sợ mà không dám ăn. Bởi thế cho nên, nhiều nhà duy chỉ biết có mỗi món chả rươi là chấm hết. Cũng vào tháng mười âm lịch, mẹ tôi  hẹn chờ gánh rươi tốt nhất để làm mắm. Thỉnh thoảng bà lại sốt ruột kêu chị em tôi lên gác thượng đảo mẹt vỏ quýt, vỏ quýt Thái  kia đấy, chứ không phải là thứ vỏ quýt hôi xì xì đầy rẫy ngoài chợ kia đâu. Không có cái tang quýt này, thì coi như hết mắm rươi - bà thi thoảng lại thốt lên như thế. Nhưng mà mắm rươi thì chưa có thể ăn ngay trong dịp này. Đợi phơi trở qua hàng tháng nắng hanh kia. Đến những ngày đầu giêng năm mới, khi cải cúc, rau cần, hành củ bén  mưa xuân, xanh tốt nõn nà,  sẽ chưng bát mắm rươi đem ra đãi khách, là hợp cách nhất.

 Vũ Tuyết Nhung